.feed-links{display:none !important;}

THÁNH MATTHIA TÔNG ĐỒ THỨ 12

Thánh Matthia Tông Đồ

THÁNH MATTHIAS TÔNG ĐỒ
Palestina (thế kỉ I)
1. Thân thế: Chúng ta chỉ được biết chút ít về thánh Mathia qua sách Tông Đồ Công vụ, trong bài diễn văn của thánh Phêrô vị thủ lãnh Giáo hội tiên khởi về việc tuyển chọn bổ xung người vào số 12 Tông Đồ Đoàn thay cho Giuda Iscario phản bội. Thánh Luca thuật lại:

(Công vụ Tông đồ 1:15-26)" Trong những ngày ấy, ông Phêrô đứng lên giữa các anh em có khoảng 120 người đang họp mặt Ông nói: Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đavít để nói trước về Giuđa, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giêsu. Y đã là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng tôi. Vậy, con người ấy đã dùng tiền công của tội ác mà tậu một thửa đất; y đã ngã lộn đầu xuống, vỡ bụng, lòi cả ruột gan ra. Điều đó, mọi người ở Giêrusalem đều biết, khiến họ đặt tên cho thửa đất ấy là Khakenđơma, theo tiếng của họ nghĩa là Đất Máu.

Thật thế, trong sách Thánh Vịnh có chép rằng:

Ước gì lều trại nó phải tan hoang, không còn ai trú ngụ.

và ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó.

Vậy trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi để làm chứng Người đã phục sinh."

Họ đề cử hai người: ông Giuse, cũng gọi là Giúttô, và ông Mátthia. Họ cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ mà Giuđa đã bỏ để đi về chỗ dành cho y."

Họ rút thăm, và ông Mátthia trúng thăm: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.

2. Gương sáng: Mathia vui mừng chấp nhận sứ mệnh và đã hăng say trong sứ mạng Chúa đã trao phó. Người đã đi rao giảng Tin Mừng tại xứ Judea, Capadocia và vùng cận biển hồ Caspian. Người đã chịu chết trên cây Thập Giá vì danh Chúa Kitô.

2 THÁNH SIMON VÀ GIUĐA TAĐÊ-O TÔNG ĐỒ

Thánh Simon
Tân ước ngoài việc đặt thánh Simon vào danh sách nhóm 12, đã không cung ứng một chỉ dẫn trực tiếp nào liên quan đến vị tông đồ này. Ngài được phân biệt với Simon Phêrô bằng danh hiệu “nhiệt thành” (Lc 6,15; Cv 1,13), một danh hiệu không có ý nói rằng: Ngài là phần tử thuộc nhóm quá khích Do Thái mang tên này, nhưng chỉ cho biết nhiệt tâm của Ngài đối với lề luật. Theo tiếng Aram, nhiệt thành là “Cana”. Điều này giải thích tại sao các thánh sử nhất lãm gọi Ngài là người xứ Cana (Mt 10,4; Mc 3,18). Có người cho rằng sinh quán của người là Galilêa. Một truyền thống còn nói thánh Simon là chàng rể phụ trong tiệc cưới tại Cana (Ga 2,1-12). Sách các thánh tử đạo kể rằng Simon sau khi chứng kiến phép lạ của Chúa Kitô, đã “bỏ rượu”, bỏ lễ cưới để theo Chúa Kitô và được liệt vào số các tông đồ. Thực sự, chẳng có chứng cớ lịch sử nào nói tới việc này.
Cũng như thánh Giacôbê Hậu, có lẽ thánh Simon là một trong các “anh em của Chúa” (Mc 6,3). Nhưng người ta không thể đồng hóa thánh tông đồ với thánh Simon mà theo truyền thống là Đấng kế vị anh mình làm Giám mục Giêrusalem.
Chúng ta không thu lượm được chi nhiều về hoạt động và cái chết của vị tông đồ. Có những tường thuật cho rằng: Ngài đi truyền giáo ở Phi Châu và các đảo Britania.
Những tường thuật này không có nền tảng. Một truyền thống khác cho rằng Ngài đi truyền giáo ở Ai Cập và cuối cùng ở Ba Tư. Truyền thống này đáng tin hơn. Nhiều nguồn tài liệu đồng ý cho rằng Ngài chịu tử đạo ở Ba Tư. Một số ít hơn nói rằng Ngài cùng chịu tử đạo với thánh Giuđa. Dầu vậy, vì không có tài liệu nào đủ tính cách cổ kính nên khó nói rõ về nơi chốn và hoàn cảnh thánh nhân qua đời.
---o0o---
Thánh Giuđa Ta-Đê-ô
Vị tông đồ này mang nhiều tên khác nhau như Tađêô (Mt 10,3; Mc 3,18) hay Giuđa (Lc 6,16; Cv 1,13).
Chính Ngài là vị tông đồ trong cuộc đàm luận sau bữa tiệc ly đã hỏi Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình ra cho chúng con mà không cho thế gian?
Chúng ta có thể đồng hóa Ngài với tác giả bức thư, trong đó có trình bày Ngài là : “Giuđa, nô lệ của Đức Giêsu Kitô, anh em với Giacôbê” (Gl 1) không? Thực sự tiếng Hy Lạp phải đọc câu văn này như ở Lc 6,16 là: “Giuđa, con của Giacôbê”. Hơn nữa câu 17 của bức thư, tác giả như tách mình ra khỏi số 12. Dĩ nhiên, điều này không làm giảm giá sự chính lục của bức thư. Có thể nói, tác giả “anh em với Chúa” (Mc 6,3) không phải là tông đồ nhưng có thể giá trong Giáo Hội sơ khai như Giacôbê (Cv 15,13).
Thánh Giuđa tông đồ, theo truyền thống, đã đi rao giảng Tin Mừng ở Mesopotamin và chịu tử đạo ở đó. Một thời Ngài được tôn kính như đấng bảo trợ cho các trường hợp “vô vọng”. Lòng sùng kính này bị quên lãng, có lẽ vì Ngài trùng tên với Giuđa phản bội.

THÁNH MATTHEU TÔNG ĐỒ

Thánh Matthêu là người Do Thái, làm việc cho quân đội La Mã với nhiệm vụ thu thuế từ những người Do Thái. Dù người Do Thái không cho phép lấy thuế quá nặng, nhưng mối quan tâm của họ là hầu bao riêng. Họ không để ý những nông dân thu thuế đã lấy gì cho họ. Do đó dân thu thuế bị người Do Thái ghét như những kẻ phản bội. Những người Pharisêu (Biệt phái) bị coi là phường tội lỗi, thế nên họ thấy “sốc” khi Chúa Giêsu gọi một người như thế làm môn đệ.

Chính nhân viên thuế vụ Matthêu đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà mình. Phúc âm cho chúng ta thấy rằng nhiều người thu thuế cũng đến dự tiệc. Người Pharisêu cũng cảm thấy “sốc” nên mới nói: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”. Chúa Giêsu trả lời: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:12-13). Chúa Giêsu không có ý coi thường nghi lễ và việc thờ phượng mà Ngài muốn nhấn mạnh việc yêu thương người khác là điều quan trọng hơn.
Tên Matthêu (tiếng Do Thái: מַתִּתְיָהוּ‎ – Mattityahu, hoặc: מתי – Mattay, nghĩa là “tặng phẩm của Chúa”; tiếng Hy Lạp: Ματθαῖος – Matthaios) là một trong 4 tác giả Phúc Âm, quen gọi là Thánh sử. Thánh Matthêu còn có tên là Lêvi, theo tiếng Do Thái nghĩa là “giữ lấy”.

Trong số những người theo và làm Tông đồ của Chúa Giêsu, Thánh Matthêu được nói đến trong Mt 9:9 và Mt 10:3 là người thu thuế ở Capernaum, người được gọi vào Nhóm Mười Hai của Chúa Giêsu, nhưng không ghi rõ lai lịch, (Mc 3:18, Lc 6:15 và Cv 1:13). Tông đồ Matthêu còn được gọi là Lêvi, con trai của ông Alpheus (x. Mc 2:14 và Lc 5:27). Theo Tân ước, ngài là một trong các nhân chứng về sự phục sinh và thăng thiên của Chúa Giêsu.

Thánh Matthêu là người Galilê, thế kỷ I. Ngài được coi là sinh ở Galilê, vùng không thuộc Giuđê. Thời đế quốc Rôma chiếm giữ (từ năm 63 trước Công nguyên do Pompey chiếm lĩnh), nhân viên thuế vụ Matthêu thu thuế của người Do Thái cho Herod Antipas, tổng trấn Galilê. Phòng thu thuế của ngài đặt tại Capernaum. Người Do Thái trở nên giàu có theo kiểu đó đã bị khinh miệt và bị coi là phường tội lỗi. Tuy nhiên, là nhân viên thu thuế, Thánh Matthêu biết tiếng Aram và tiếng Hy Lạp.

Sinh nhật của Tông đồ Matthêu chịu tử đạo tại Ethiopia khi đang rao giảng. Phúc Âm do ngài viết bằng tiếng Do Thái, được phát hiện trong thời Hoàng đế Zeno, cùng với thánh tích của Tông đồ Barnabas (theo sách “Tử đạo Rôma”). Kiệt tác của danh họa Caravaggio miêu tả cảnh Chúa Giêsu kêu gọi nhân viên thuế vụ Matthêu, khi ông đang ngồi ở bàn thu thuế, và ông bỏ việc mà đi theo Chúa Giêsu ngay (Mt 9:9; Mc 2:14; Lc 5:27).

Thánh sử Luca và Mác-cô gọi Thánh Matthêu là Lêvi, nhưng Thánh Matthêu gọi mình bằng tên riêng. Tương tự, Thánh Matthêu không minh nhiên nói tới bữa ăn tối của Chúa Giêsu tại nhà mình, còn Thánh Luca và Thánh Mác-cô nói rõ là nhà của ông Lêvi.

Với người Israel, việc một người có hai tên là điều bình thường to have two names: Saolê được gọi là Phaolô, Tôma được gọi là Điđymô,... Hoặc người Do Thái cũng có hai tên: Simon được gọi là Kê-pha, Giuse được gọi là Caipha. Cũng vậy, Matthêu cũng được gọi là Lêvi. Có điều hay là Thánh Matthêu không ngại khi nhận mình là người tội lỗi, không giấu giếm sơ yếu lý lịch hoặc xuất xứ của mình.

Biểu tượng của Thánh sử Matthêu là hình người hoặc thiên thần – biểu tượng của Thánh sử Mác-cô là sư tử, biểu tượng của Thánh sử Luca là con bò, biểu tượng của Thánh sử Gioan là đại bàng.

Thánh Giêrônimô nói: “Các thánh sữ khác vì tôn trọng Thánh Matthêu nên đã không gọi ngài bằng tên thường dùng, mà gọi là Lêvi. Chính Thánh Matthêu tự nhận mình là Matthêu và người thu thuế. Đó là để người đọc thấy rằng đừng thất vọng với ơn cứu độ, hãy nhìn người thu thuế trở thành Tông đồ của Chúa”.

Chân phước Rabanus Maurus nhận thấy ý nghĩa thần bí với hai tên Mattheu và Levi: “Matthêu nghĩa là người tìm kiếm lợi ích trần tục. Chúa Giêsu nhìn Matthêu với ánh mắt đầy lòng thương xót. Vì tên Matthêu nghĩa là ‘được trao ban’, còn tên Levi nghĩa là ‘bị lấy đi’. Hối nhân được đưa ra khỏi vùng tội lỗi, và ơn Chúa được trao ban cho Giáo Hội”.

THÁNH AN-RÊ TÔNG ĐỒ (30/11)


Chúa đã chọn các tông đồ để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin Mừng và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.Chúa tuyển chọn các tông đồ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội.Chúa chọn các tông đồ với ơn huệ nhưng không của Ngài.Chúa muốn chọn ai tùy ý Chúa.

THÁNH ANRÊ

Theo tiếng Hy Lạp,Anrê có nghĩa là trượng phu và thanh nhã.Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Anrê và một tông đồ khác với Chúa Giêsu.Thánh nhân đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu:"Hãy theo Ta,Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ lưới người ta".Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu.Thánh Anrê đã được nhắc nhớ nhiều lần trong các sách Tin Mừng của Chúa Giêsu.Chúa Giêsu đã nói tiên tri về thành thánh Giêrusalem,Anrê đã thắc mắc hỏi Chúa Giêsu khi nào thì sẽ xẩy ra như lời Chúa nói.Sau khi Chúa sống lại,các tông đồ nghe lời Chúa ở lại Giêrusalem để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sau đó ra đi loan báo Tin Mừng.Sử liệu ít ghi lại về công cuộc truyền giáo của các ngài nơi nhiều vùng đất,nơi nhiều nước trên thế giới.Nhưng có đoạn viết đã tường thuật về cuộc tử đạo của thánh Anrê tông đồ.Thánh nhân đã dứt khoát không chịu để cho người ta thương ngài xin quan tha chết cho ngài.Ngài đã dứt khoát chịu chết để được nên giống Chúa Giêsu.Chúa đã chấp nhận lời ngài kêu xin,Ngài đã không chịu khuất phục quan lãnh sự Akai và chấp nhận cái chết như lời Chúa Giêsu đã nói:"Khi nào Ta được giương cao khỏi đất,Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta".Thánh nhân đã được Chúa cho đội mũ triều thiên công chính.Giáo chủ thành Alexandrie năm 357 đã đem hài cốt Ngài về Constantinople.

LỜI CẦU NGUYỆN

Vì muốn nên giống Chúa Giêsu,thánh nhân đã liều mình,hy sinh chịu chết:"Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu"(Ga 15,13).Thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời:" vì Người mà tôi chịu đau khổ,tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi"( 2Tm 2,9 ).Và như thế,Ngài cảm nghiệm:Ðức Giêsu,Ðấng"chúng ta sẽ cùng hiển trị với Người,nếu Ta kiên tâm chịu đựng"( 2Tm 2,12 ).

Lạy Chúa,hôm nay chúng con mừng kính thánh Anrê,người ngư phủ đã tin Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia và mau mắn giới thiệu cho em mình.Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con để chúng con cũnng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ.( Lời nguyện nhập lễ,lễ thánh Anrê,tông đồ).


2 THÁNH PHILIPPHE VÀ GIACOBE (Hậu)


Thánh Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ngài sinh tại Bétsaiđa vùng Galilê, cùng quê với thánh Phêrô và thánh Anrê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông theo Người. Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông, và đến lượt mình, chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: "Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi" (Ga 1,45). Và ông còn khích lệ thêm: "Hãy đến mà xem" (Ga 1,46). Tin Mừng cũng đã nói lên mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và ngài. Trong cuộc đời theo Chúa Giêsu, thánh Philipphê đã được Chúa yêu thương, bảo ngài tìm kiếm cho dân chúng thức ăn vì họ đi theo Chúa và nghe Chúa giảng dạy. Và qua biến cố đó, Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no nê. Tin Mừng cũng cho hay chính thánh nhân đã được nhiều người lương dân xúm lại hỏi han và xin ngài chỉ cho họ thấy Đấng Cứu Thế. Ngay trong bữa tiệc ly, thánh Philipphê đã xin Chúa Giêsu chỉ Thiên Chúa Cha cho ngài và các môn đệ khác được biết. Chúa trả lời ngay với thánh nhân: "Ai thấy Ta là thấy Cha của Ta ".
Sau khi Chúa Giêsu bị bắt, bị xử án và bị treo trên Thập Giá, thánh Philipphê đã tưởng mọi sự chấm dứt từ đây. Ngài xao xuyến, hoang mang và muốn về lại quê hương để tiếp tục làm ăn sinh sống. Nhưng biến cố ngày lễ Ngũ Tuần đã làm cho ngài và các môn đệ hoàn toàn thay đổi, hoàn toàn trở nên người mới. Sau khi đã nhận lãnh Thánh Thần, ngài đã đem đức tin lại cho toàn thể dân thành Sitti. Sau đó, thánh nhân đã đi tới miền Hiêrapoli, xứ Rigie. Nơi đây ngài đã nhiệt thành, hăng say rao giảng Tin Mừng nước Chúa cho mọi người. Vì thế Chúa đã thưởng công Ngài và ban cho Ngài triều thiên tử đạo. Ngài đã bị đóng đinh để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô. Xác thánh nhân được chôn cất tại Rigie và sau này được cải táng đem về Rôma chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài được gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra với thánh nhân và chính thánh Giacôbê hậu đã viết một bức thư nay còn lưu lại trong phần Tân Ước. Thánh Giacôbê hậu là Giám Mục đầu tiên tại Giêrusalem. Ngài đã luôn nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho Chúa Giêsu. Thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã diễn tả sự thánh thiện của ngài như sau: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời, hiến mình cho Thiên Chúa. Ngài đã không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối ngài chai cứng như da lạc đà. Và vì trung thành với đức tin, thánh nhân đã bị bọn Biệt Phái và những bọn xấu vu khống, tố cáo, kết án.  Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ mà Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ đã triệu ngài đến ở trước công nghị để tra vấn xem ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, ngài nói: Chúa Giêsu là Con Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời. Sau lời tuyên xưng đó, ngài bị chúng xô từ nóc đền thờ xuống đất và chúng ném đá ngài cho đến chết. Thánh nhân đã xin Thiên Chúa tha thứ cho những kẻ làm khổ mình và giết hại ngài theo gương Người Thầy Chí Thánh của ngài.
Chúa đã ban cho hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê được lòng can đảm rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa với tất cả niềm tin yêu phó thác. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, trung kiên sống theo lời Chúa dạy và làm chứng cho Chúa qua chính đời sống hằng ngày của chúng con.